BAN CHẤP HÀNH TRUNG
ƯƠNG
-------
|
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
---------------
|
Số: 26-NQ/TW
|
Hà Nội, ngày 19
tháng 5 năm 2018
|
NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG KHOÁ XII
VỀ
TẬP TRUNG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÁC CẤP, NHẤT LÀ CẤP CHIẾN LƯỢC, ĐỦ PHẨM CHẤT,
NĂNG LỰC VÀ UY TÍN, NGANG TẦM NHIỆM VỤ
I- TÌNH HÌNH VÀ
NGUYÊN NHÂN
1. Tình hình
Sau hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 3 khoá VIII về Chiến lược cán bộ, đội ngũ cán bộ các cấp có bước trưởng
thành, phát triển về nhiều mặt, chất lượng ngày càng được nâng lên, từng bước
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cơ
cấu độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành nghề, lĩnh vực công tác có sự cân đối, hợp
lý hơn; nguồn cán bộ quy hoạch khá dồi dào, cơ bản bảo đảm sự chuyển tiếp giữa
các thế hệ.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ có lập trường tư
tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu,
có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực được
nâng lên, phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ năng động, sáng
tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc
tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính
trị - xã hội ở các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín. Cán bộ cấp chiến lược có
bản lĩnh chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Mục
tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả
năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện. Hầu
hết cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn,
trung thành với Đảng, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Nhiều
cán bộ khoa học tâm huyết, say mê nghiên cứu, có đóng góp tích cực cho đất nước.
Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước thích ứng nhanh với cơ chế
thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Công
tác cán bộ đã bám sát các quan điểm, nguyên tắc của Đảng, ngày càng đi vào nền
nếp và đạt được những kết quả quan trọng. Đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận,
chỉ thị và sửa đổi, bổ sung nhiều quy định, quy chế để tổ chức thực hiện. Các
quy trình công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, công khai, minh bạch,
khoa học và dân chủ hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng và cập nhật kiến thức mới
được quan tâm, từng bước gắn với chức danh, với quy hoạch và sử dụng cán bộ. Chủ
trương luân chuyển kết hợp với bố trí một số chức danh lãnh đạo không là người
địa phương đạt được kết quả bước đầu. Công tác kiểm tra, giám sát, bảo vệ chính
trị nội bộ được quan tâm thực hiện có hiệu quả hơn; kỷ cương, kỷ luật được tăng
cường. Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh một số tổ chức, cá nhân vi phạm đã góp
Phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe và ngăn chặn tiêu cực, làm trong sạch một bước
đội ngũ cán bộ, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước.
Tuy
nhiên, nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa,
vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn
hạn chế. Tỉ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số chưa đạt Mục
tiêu đề ra. Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên
gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán bộ chưa đồng đều,
có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp
cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình
độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế
còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại
khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện
"tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Một số cán bộ lãnh đạo, quản
lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực,
phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng
vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Không ít cán bộ quản lý doanh
nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng sơ hở
trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn,
tài sản của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý
theo pháp luật. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy
luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội...,
trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.
Công
tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội dung còn hình
thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với
kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc
định kiến. Quy hoạch cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các
ngành, các địa phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động"
và "mở". Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp
chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức danh.
Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh không là người
địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc
sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng
đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ
không đủ tiêu chuẩn, Điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng,
"cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất
lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực. Chủ trương
thu hút nhân tài chậm được cụ thể hoá bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết
quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách
cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính
sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động
lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
Phân
cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở cấp trên. Một
số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức thực hiện thiếu nhất
quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra, giám
sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu
giải pháp hiệu quả để phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị
nội bộ còn bị động, chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định. Đầu
tư xây dựng đội ngũ làm công tác tổ chức, cán bộ chưa tương xứng với yêu cầu,
nhiệm vụ; tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu còn nhiều đầu mối, chức năng, nhiệm vụ
chưa thật sự hợp lý; phẩm chất, năng lực và uy tín của không ít cán bộ làm công
tác tổ chức, cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu.
Sự
trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố
then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của
công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết điểm, yếu kém
của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ
cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân
dân đối với Đảng và Nhà nước.
2. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
-
Nhận thức và ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ
quan, đơn vị và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, về cán bộ và công
tác cán bộ chưa thật sự đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Công tác giáo dục chính trị,
tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức.
-
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nội dung nêu trong các nghị
quyết, kết luận của Trung ương về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ
còn thiếu quyết liệt, chưa thường xuyên, nghiêm túc; chậm thể chế hoá, cụ thể
hoá; ít kiểm tra đôn đốc và chưa có chế tài xử lý nghiêm.
-
Một số nội dung trong công tác cán bộ chậm được đổi mới. Chưa có tiêu chí, cơ
chế hiệu quả để đánh giá đúng cán bộ, tạo động lực, bảo vệ cán bộ và thu hút,
trọng dụng nhân tài; chính sách cán bộ còn bất cập, chưa phát huy tốt tiềm năng
của cán bộ. Công tác quản lý cán bộ có nơi, có lúc bị buông lỏng; chưa có cơ chế
sàng lọc, thay thế kịp thời những người yếu kém, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ.
-
Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường
kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực.
Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức,
chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả
trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm. Công tác bảo vệ
chính trị nội bộ chưa được đầu tư, quan tâm đúng mức.
-
Chưa phát huy đầy đủ vai trò giám sát của cơ quan dân cử; giám sát, phản biện
xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; thiếu cơ chế phù hợp
để cán bộ, đảng viên gắn bó mật thiết với nhân dân; chưa phát huy có hiệu quả
vai trò, trách nhiệm của các cơ quan truyền thông, báo chí.
-
Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham mưu về tổ chức, cán bộ còn chồng chéo,
chậm được đổi mới. Chưa quan tâm đúng mức xây dựng đội ngũ làm công tác cán bộ;
năng lực, phẩm chất, uy tín của một số cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Còn coi nhẹ công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng
và phát triển lý luận về cán bộ và công tác cán bộ.
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO
VÀ MỤC TIÊU
Trong
những năm tới, tình hình thế giới và khu vực vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp,
khó lường. Hoà bình, hợp tác, hội nhập và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo; các
mối đe doạ truyền thống, phi truyền thống và biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt.
Sự bùng nổ của khoa học - công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế số, kinh
tế tri thức và xu hướng quốc tế hoá nguồn nhân lực vừa là thời cơ, vừa là thách
thức đối với nước ta. Ở trong nước, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế ngày
càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày
càng được nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh, bền vững. Tuy
nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó
khăn, thách thức; bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay
gắt hơn; tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những
nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động
ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp hơn trong Điều kiện phát triển kinh tế
thị trường, mở cửa hội nhập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin truyền thông
toàn cầu, chiến tranh mạng,... Thời gian tới cũng là giai đoạn chuyển giao thế
hệ từ lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, được rèn luyện, trưởng thành trong chiến
tranh, chủ yếu được đào tạo ở trong nước và tại các nước xã hội chủ nghĩa, sang
lớp cán bộ sinh ra, lớn lên, trưởng thành trong hoà bình và được đào tạo từ nhiều
nguồn, nhiều nước có thể chế chính trị khác nhau.
Tình
hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội
ngũ cán bộ.
1. Quan điểm
-
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là
khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận
trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư
cho phát triển lâu dài, bền vững.
-
Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn
diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn
hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường,
Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng
buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực
và xử lý nghiêm minh sai phạm.
-
Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác
cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát
từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong
trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân
tài.
-
Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ;
quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử
lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn
là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu
dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức
là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát
triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
-
Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là
của các cấp ủy, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu
của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai
trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan
truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để
xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
2. Mục tiêu
2.1.
Mục tiêu tổng quát: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến
lược có phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; đủ về số lượng, có chất
lượng và cơ cấu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc; bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ, đủ sức lãnh đạo
đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm
nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, vì Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc.
2.2.
Mục tiêu cụ thể:
-
Đến năm 2020: (1) Thể chế hoá, cụ
thể hoá Nghị quyết thành các quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ; (2) Hoàn thiện cơ
chế kiểm soát quyền lực; kiên quyết xoá bỏ tệ chạy chức, chạy quyền; ngăn chặn
và đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá" trong cán bộ, đảng viên; (3) Đẩy mạnh thực hiện chủ trương bố trí bí
thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; (4) Hoàn thành việc
xây dựng vị trí việc làm và rà soát, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ các cấp gắn với
kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Đến năm
2025: (1)
Tiếp tục hoàn thiện, chuẩn hoá, đồng bộ các quy định, quy chế, quy trình về
công tác cán bộ; (2) Cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa
phương và hoàn thành ở cấp huyện; đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các
chức danh khác; (3) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng tiêu chuẩn chức
danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định.
-
Đến năm 2030: (1) Xây dựng được đội ngũ cán bộ các cấp chuyên nghiệp,
có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một
cách vững vàng; (2) Cơ bản xây dựng được đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là:
+
Đối với cán bộ cấp chiến lược: Thực sự tiêu biểu về chính trị, tư tưởng,
phẩm chất, năng lực và uy tín; trên 15% dưới 45 tuổi; từ 40 - 50% đủ khả năng
làm việc trong môi trường quốc tế (đối với quân đội, công an có quy định riêng
của Bộ Chính trị).
+ Đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp tổng cục, cục, vụ, phòng và tương đương ở
Trung ương: Từ 20 - 25% dưới 40 tuổi; từ 50 - 60% đủ khả năng làm việc
trong môi trường quốc tế.
+
Đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở địa phương: Từ 15 - 20% cán bộ
lãnh đạo, quản lý cấp tỉnh dưới 40 tuổi, từ 25 - 35% đủ khả năng làm việc trong
môi trường quốc tế; từ 20 - 25% cán bộ lãnh đạo chủ chốt và ủy viên ban thường
vụ cấp ủy cấp huyện dưới 40 tuổi. Đối với cán bộ chuyên trách cấp xã: 100% có
trình độ cao đẳng, đại học và được chuẩn hoá về lý luận chính trị, chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ năng công tác.
+
Đối với cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an: Tuyệt đối trung thành
với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm, sức chiến
đấu cao; có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng vũ
trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; từ 20 - 30% đủ khả
năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+
Đối với đội ngũ cán bộ khoa học, chuyên gia: Đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước. Hình thành đội ngũ chuyên gia đầu ngành, các nhà khoa học ở
những lĩnh vực trọng điểm, có thế mạnh, đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế
giới. Số cán bộ khoa học đạt ít nhất 11 người trên 1 vạn dân.
+
Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước: Nâng cao tính Đảng và
ý thức tuân thủ pháp luật; sản xuất kinh doanh hiệu quả; từ 70 - 80% có
khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.
+
Phải có cán bộ nữ trong cơ cấu ban thường vụ cấp ủy và tổ chức đảng các cấp. Tỉ
lệ nữ cấp ủy viên các cấp đạt từ 20 - 25%; tỉ lệ nữ đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân các cấp đạt trên 35%. Ở những địa bàn có đồng bào dân tộc thiểu số, phải
có cán bộ lãnh đạo là người dân tộc thiểu số phù hợp với cơ cấu dân cư.
III- NHIỆM VỤ, GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Nâng cao nhận thức, tăng cường giáo dục
chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên
-
Quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; quán triệt và thực hiện nghiêm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất
là về công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ. Kiên quyết đấu tranh
với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; mở rộng các hình thức tuyên
truyền, nhân rộng những điển hình tiên tiến, những cách làm sáng tạo, hiệu quả.
-
Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng
cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng
Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc; kết hợp chặt chẽ,
hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện nghiêm túc chế độ học
tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là
cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài.
2. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác cán bộ
-
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng
dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những
tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.
-
Thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ
theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp
với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát
chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, Điều kiện để
thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám
chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
-
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều,
theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và
so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả
thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.
-
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân
chuyển cán bộ:
+
Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ
quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu
phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực.
+
Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ.
+
Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực
hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện
qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.
+
Thực hiện việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa
phương theo Mục tiêu đề ra; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác,
nhất là chức danh chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu có Điều kiện.
+
Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân
tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho
phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng
nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt
Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.
- Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng
cán bộ:
+
Hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp ủy các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số
lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào
cũng phải có cấp ủy viên.
+
Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở
những nơi có Điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng
viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày Chương trình hành động và cam kết trách
nhiệm thực hiện.
+
Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp
dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nhân sự
không trúng cử cấp ủy cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp ủy cấp trên.
+
Cấp ủy các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp,
bố trí, tạo Điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là
người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ
tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với
trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu.
+
Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp ủy viên các cấp trong việc tiến cử người
có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người
thay thế mình.
+
Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh,
năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả
vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.
+
Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn
hoá ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn
nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào, có ra" trở
thành bình thường trong công tác cán bộ.
-
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị
trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và Điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của đất nước. Xây dựng chính sách
nhà ở theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương
quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện
nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng.
-
Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác
cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã
chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.
-
Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và tập
trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những
trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu
ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.
-
Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương:
+
Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.
+
Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy
trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp ủy giới thiệu để bầu ủy
viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung
dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.
+
Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với
cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có phẩm chất,
năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới
-
Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị phải nâng cao trách nhiệm,
triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác cán bộ và tạo môi trường, Điều kiện để
xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ. Coi trọng trang bị kiến thức về công tác
cán bộ cho lãnh đạo các cấp. Tập trung nâng cao chất lượng bí thư cấp ủy, người
đứng đầu các cấp và đội ngũ cán bộ cấp cơ sở.
-
Hoàn thiện cơ chế, đẩy mạnh thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp
xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ có triển vọng và đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi
dưỡng, rèn luyện lớp cán bộ kế cận. Chủ động nắm, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện đối với sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở trong nước và nước
ngoài.
-
Cơ cấu, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành theo vị trí việc làm,
khung năng lực, bảo đảm đúng người, đúng việc, giảm số lượng, nâng cao chất lượng,
hợp lý về cơ cấu.
-
Xây dựng đồng bộ, toàn diện các đối tượng cán bộ ở các cấp. Chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp, tinh thần phục vụ nhân dân của cán bộ,
công chức, viên chức. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao sức chiến đấu của
lực lượng vũ trang. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học; có chính sách
ưu đãi để xây dựng, sử dụng đội ngũ các nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành
trên các lĩnh vực. Củng cố, nâng cao ý thức trách nhiệm và tính Đảng đối với
cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là người đứng đầu; xây dựng quy định
về tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản trị doanh nghiệp phù hợp với cơ chế
thị trường và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
-
Nghiên cứu thực hiện cơ chế, chính sách liên thông, bình đẳng, nhất quán trong
hệ thống chính trị; liên thông giữa cán bộ, công chức cấp xã với cán bộ, công
chức nói chung, giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; có cơ chế cạnh
tranh vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
và tiến tới bỏ chế độ "biên chế suốt đời".
-
Quản lý chặt chẽ, hiệu quả đội ngũ cán bộ các cấp theo hướng: Xây dựng hệ thống
cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ. Địa phương, cơ quan, đơn vị phải thực hiện
nghiêm việc quản lý cán bộ theo quy định của cấp có thẩm quyền. Cơ quan sử dụng
cán bộ phải quản lý cán bộ chặt chẽ, hiệu quả. Người đứng đầu chịu trách nhiệm
chính về quản lý cán bộ theo phân cấp. Bản thân cán bộ thực hiện nghiêm các quy
định, quy chế, cam kết của mình; báo cáo, giải trình trung thực và chịu trách
nhiệm khi có yêu cầu.
-
Hoàn thiện các quy định, quy chế để kiểm soát chặt chẽ, sàng lọc kỹ càng, thay
thế kịp thời những người năng lực hạn chế, uy tín thấp, không đủ sức khoẻ, có
sai phạm, không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, đến tuổi nghỉ hưu.
Không lấy việc bố trí chức vụ, phong hàm, phong, thăng quân hàm, nâng ngạch để
thực hiện chế độ, chính sách cán bộ.
-
Quân đội, Công an có đề án riêng để xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc
và nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tình hình mới.
4. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược ngang tầm nhiệm vụ
Xây
dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược bảo đảm các tiêu chuẩn quy định và đáp ứng
yêu cầu, theo hướng:
-
Phát hiện, lựa chọn từ nguồn quy hoạch những cán bộ tiêu biểu, xuất sắc đã được
đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện theo chức danh, nhất là những người đã được thử
thách qua thực tiễn, có thành tích nổi trội, có "sản phẩm" cụ thể, có
triển vọng phát triển.
-
Bổ sung kiến thức, nâng cao trình độ mọi mặt; bồi dưỡng toàn diện về kỹ năng; định
kỳ cập nhật kiến thức mới theo từng nhóm đối tượng.
-
Xây dựng kế hoạch cụ thể để luân chuyển, Điều động giữ vị trí cấp trưởng, phù hợp
với chức danh quy hoạch ở địa bàn khó khăn, lĩnh vực trọng yếu, nơi triển khai
mô hình mới để thử thách, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, nhân sinh
quan cách mạng, năng lực lãnh đạo toàn diện của cán bộ.
-
Tổ chức các lớp dự nguồn cán bộ cao cấp để chuẩn bị tốt nguồn nhân sự cho các
chức danh cấp chiến lược.
-
Đánh giá chính xác nhân sự được quy hoạch, giới thiệu bầu cử, bổ nhiệm vào các
chức danh cấp chiến lược. Kiên quyết không để lọt những người không xứng đáng,
những người chạy chức, chạy quyền vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
-
Định kỳ rà soát, bổ sung quy hoạch nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính
trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội cho các nhiệm kỳ.
-
Tập trung xây dựng Ban Chấp hành Trung ương theo hướng nâng cao chất lượng, có
số lượng và cơ cấu hợp lý, thực sự tiêu biểu về đạo đức cách mạng, bản lĩnh
chính trị, trí tuệ, trong sáng, gương mẫu về mọi mặt. Chủ động chuẩn bị nhân sự,
xây dựng "hình ảnh" các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước,
các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
-
Xây dựng tiêu chuẩn và có kế hoạch, biện pháp đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, thử
thách đối với Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng theo hướng chỉ lựa chọn cán bộ
trẻ, thật sự ưu tú và có cơ cấu hợp lý giữa Trung ương với địa phương, giữa các
ngành nghề, lĩnh vực trong hệ thống chính trị.
5. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công
tác cán bộ; chống chạy chức, chạy quyền
-
Xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo
nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn,
phải được ràng buộc bằng trách nhiệm.
-
Thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự;
cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu. Xác minh, xử lý kịp thời,
hiệu quả, hợp lý thông tin phản ảnh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện
thông tin đại chúng.
-
Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên
đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên.
Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm.
-
Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái
trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Hủy bỏ, thu hồi
các quyết định không đúng về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ
chức, cá nhân sai phạm, không có "vùng cấm".
-
Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; vai
trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng
cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ.
-
Quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ. Xác định rõ
trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.
-
Nhận thức sâu sắc về tác hại nghiêm trọng của tệ chạy chức, chạy quyền, coi đây
là hành vi tham nhũng trong công tác cán bộ. Nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt,
hiệu quả với các đối tượng có biểu hiện, hành vi chạy chức, chạy quyền. Coi trọng
giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng và
danh dự của cán bộ để hình thành văn hoá không chạy chức, chạy quyền.
6. Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây
dựng đội ngũ cán bộ
-
Thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ
cán bộ.
-
Thường trực cấp ủy các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, phó bí thư, ủy
viên ban thường vụ và cấp ủy viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; đảng viên
công tác tại xã, phường, thị trấn sinh hoạt đảng tại chi bộ khu dân cư. Thực hiện
việc phân công cán bộ, đảng viên phụ trách hộ gia đình nơi cư trú với các hình
thức phù hợp để gắn bó mật thiết với nhân dân; truyền đạt chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng của nhân dân; nắm chắc tình hình cơ sở; đồng thời, qua đó để
nhân dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống.
-
Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám
sát trong công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ.
-
Nghiên cứu mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân
đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một
cách phù hợp.
-
Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại,
tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến
cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các
phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.
7. Nâng cao chất lượng công tác tham mưu, coi
trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về công tác tổ chức, cán bộ
-
Các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị thường xuyên chăm lo xây dựng,
củng cố cơ quan tham mưu và đội ngũ làm công tác cán bộ thật sự trong sạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp; đặc biệt coi trọng lựa chọn, bố trí đúng người đứng đầu cơ
quan làm công tác tổ chức, cán bộ các cấp.
-
Nâng cao nhận thức, chất lượng công tác tham mưu, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả
giữa các cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ theo
chức năng, nhiệm vụ của mình.
-
Xây dựng mô hình tổ chức, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham
mưu về tổ chức, cán bộ các cấp theo hướng giảm đầu mối, tránh chồng chéo, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động; bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo
và quản lý tổ chức, biên chế, công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội ngũ cán
bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị. Đẩy mạnh cải cách hành chính; chuẩn hoá
văn bản pháp quy; tin học hoá, tự động hoá trong quản lý và Điều hành.
-
Tăng cường giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện để nâng cao chất lượng đội
ngũ làm công tác cán bộ "trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng,
tinh thông" đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nghiêm trị các hành
vi tiêu cực trong công tác cán bộ, nhất là việc tiếp tay cho chạy chức, chạy
quyền.
-
Coi trọng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát công tác cán bộ ở các cấp,
các ngành; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy trình công tác cán bộ.
-
Kịp thời sơ kết, tổng kết các chỉ thị, nghị quyết, quy định, quy chế và những
chủ trương thí điểm, mô hình mới, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả; nâng cao chất
lượng nghiên cứu khoa học, xây dựng và phát triển lý luận về công tác tổ chức,
cán bộ.
8. Một số nội dung cơ bản về công tác nhân sự
đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc
-
Xây dựng, hoàn thiện các văn bản liên quan đến công tác nhân sự đại hội phù hợp
với từng giai đoạn phát triển, nhất là Chỉ thị về đại hội đảng bộ các cấp và
Phương hướng công tác nhân sự sát với tình hình thực tế.
-
Rà soát kỹ, bổ sung đầy đủ thông tin, đánh giá chính xác, nắm chắc vấn đề chính
trị của cán bộ; thực hiện việc bố trí, sắp xếp, Điều động, luân chuyển, đề bạt,
bổ nhiệm cán bộ đủ tiêu chuẩn, Điều kiện trên cơ sở quy hoạch để chuẩn bị tốt
nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc.
-
Tổ chức các lớp cán bộ dự nguồn trong quy hoạch ở các cấp để bổ sung, nâng cao
kiến thức, hoàn thiện kỹ năng lãnh đạo, quản lý, phù hợp với từng nhóm đối tượng
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân sự đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng
toàn quốc.
-
Ban thường vụ cấp ủy từng cấp căn cứ tình hình cụ thể để sử dụng các cơ quan
chuyên môn một cách phù hợp trong việc tiến hành khảo sát, đánh giá nhân sự
theo phân cấp, chủ động chuẩn bị nhân sự đại hội và các công việc cần thiết
khác có liên quan.
Thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp nêu trên
cần tập trung vào hai trọng tâm và năm đột phá:
-
Hai trọng tâm là: (1) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện, đồng bộ, hiệu quả
công tác cán bộ; chuẩn hoá, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường,
Điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển và có cơ chế bảo vệ
cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung;
(2) Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và bí thư cấp ủy, người đứng
đầu các cấp đi đôi với phân cấp, phân quyền nhằm phát
huy tính chủ động, sáng tạo, đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm
soát chặt chẽ quyền lực.
- Năm
đột phá là: (1) Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt,
liên tục, đa chiều, theo tiêu chí, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai
kết quả và so sánh với chức danh tương đương; (2) Kiểm soát chặt chẽ quyền lực,
sàng lọc kỹ càng, thay thế kịp thời; chấm dứt tình trạng chạy chức, chạy quyền;
(3) Thực hiện nhất quán chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện
không là người địa phương ở những nơi đủ Điều kiện; (4) Cải cách chính sách tiền
lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công
việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút,
trọng dụng nhân tài; (5) Hoàn thiện cơ chế để cán bộ, đảng viên thật sự gắn bó
mật thiết với nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đội
ngũ cán bộ.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Chính trị
ban hành Kế hoạch quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết, xác định rõ những
việc cần làm ngay, những việc làm thường xuyên và những việc theo lộ trình; phân
công cụ thể và thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc tổ chức thực hiện Nghị quyết.
2. Các tỉnh ủy,
thành ủy, đảng ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng, cơ quan, đơn vị trực thuộc Trung
ương tổ chức học tập, quán triệt, chủ động xây dựng kế hoạch, đề án cụ thể để
thực hiện Nghị quyết.
3. Đảng đoàn Quốc
hội, Ban cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng nghiên cứu,
khẩn trương thể chế hoá các nội dung Nghị quyết, nhất là những việc cần phải
làm ngay; sớm sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công
chức, Luật Viên chức và các văn bản quy
phạm pháp luật khác có liên quan đến công tác cán bộ, xây dựng và quản lý đội
ngũ cán bộ.
4. Các ban, cơ quan đảng
ở Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ triển khai nghiên cứu, xây dựng, cụ thể
hoá Nghị quyết thành các quy định, quy chế, ban hành hướng dẫn và kiểm tra, đôn
đốc việc thực hiện.
5. Ban Tổ chức
Trung ương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan giúp Bộ Chính trị, Ban
Bí thư xây dựng Kế hoạch để triển khai quán triệt, tổ chức thực hiện và thường
xuyên theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc; định kỳ sơ kết, tổng kết việc thực
hiện Nghị quyết.
|
T/M BAN CHẤP HÀNH
TRUNG ƯƠNG
TỔNG BÍ THƯ
Nguyễn Phú Trọng
|